Ban điều phối Ngành hàng cà phê Việt Nam Vietnam Coffee Coordination Board

English Vietnamese

Báo cáo thị trường cà phê Thế giới 27.04.2017

Báo cáo số lượng giao dịch của các nhà đầu tư (Commitment of Traders (CoT)) mới nhất về thị trường cà phê arabica ở New York đã cho thấy các nhà đầu cơ không chuyên giảm vị thế mua ròng xuống còn 162,96% trong suốt tuần giao dịch đến thứ Ba ngày 18.04; để đăng kí một vị thế mua ròng trị giá 10,544 lot trong ngày.

Báo cáo số lượng giao dịch của các nhà đầu tư (Commitment of Traders (CoT)) mới nhất về thị trường cà phê arabica ở New York đã cho thấy các nhà đầu cơ không chuyên giảm vị thế mua ròng  xuống còn 162,96% trong suốt tuần giao dịch đến thứ Ba ngày 18.04; để đăng kí một vị thế mua ròng trị giá 10,544 lot trong ngày. Vị thế mua ròng này tương đương với 2.989.177 bao đã được thanh lý gần hết và nhóm các nhà đầu cơ này quay trở lại vị thế bán ròng  do họ đã có kinh nghiệm sau sự đảo chiều khó dự đoán của thị trường cà phê Arabica ở New Yorktrong nửa cuối tuần trước.
 
Cơ quan phát triển cà phê Uganda UCDA đã thông báo rằng xuất khẩu cà phê của quốc gia này trong tháng 3 đạt tổng số 409.916 bao, tăng 162.078 bao tương đương mức tăng hơn 65,4% so với cùng kỳ năm ngoái.  Sự thay đổi đáng kể này đã góp phần đưa xuất khẩu cà phê của Uganda trong 6 tháng đầu niên vụ cà phê  10/2016 - 09/ 2017 tăng 585,040 bao tương đương mức tăng 35,05% so với cùng kỳ năm trước, đạt tổng cộng 2.254.094 bao.
 
UCDA dự báo rằng lượng nhập khẩu cà phê tiếp tục tăng lên trong tháng 4, nhưng họ cũng lo ngại tình trạng hạn hán cục bộ xảy ra quý IV năm ngoái và  đầu năm nay sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến khối lượng xuất khẩu trong những tháng tới. Tuy nhiên, với những số liệu thống kê về tình hình thực hiện ấn tượng gần đây, các nước xuất khẩu cà phê năm nay có khả năng vẫn  đạt được hơn con số 3.315.567 bao của niên vụ cà phê trước.
 
Những năm trước, xuất khẩu cà phê robusta và cà phê arabica có tỷ lệ khoảng 73.45% và 26.55%, trong đó Uganda giữ vị trí thống trị trong xuất khẩu cà phê robusta, đứng thứ 2 về thị phần ở Ethiopia xét về lượng xuất khẩu cà phê Arabica từ châu Phi. Uganda có rất nhiều  công ty tư nhân kinh doanh cà phê, các chương trình khuyến nông về cà phê của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ khác, vì vậy nếu không xét đến các yếu tố thời tiết diễn biến bất thường thì việc sản xuất và xuất khẩu cà phê ở Uganda vẫn đang đi đúng hướng để phát triển và tăng ổn định trong tương lai. 
 
Thứ sáu tuần qua là một ngày đầy biến động  với thị trường cà phê Robusta London; Trong khi người ta mong đợi sẽ xuất hiện sự dịch chỉnh âm sau lần đảo chiều ở thị trường new york vào cuối ngày thứ 5 thì một số chuyên gia nhận thấy sẽ xuất hiện hoạt động bán tháo đầu cơ  xảy ra vào chiều thứ 6. Điều này cho thấy thị trường London đã có phiên trượt giá trong ngày lớn nhất trong lịch sử 6 năm qua, với mức giá giảm dưới mức trung bình của 200 ngày cùng với khối lượng giao dịch lớn.
 
Chênh lệch hợp đồng tháng 7 giữa thị trường London và New York đã trở nên lớn hơn vào thứ sáu, ở mức mức 42,64 usc/lb. Điều này tương đương với mức giá giảm 32,08% cho thị trường cà phê robusta ở London. Sự chênh lệch khá nhỏ này  vẫn không phải là một yếu tố hấp dẫn đối với nhiều nhà chế biến cà phê vốn nhạy cảm về giá, những người coi cà phê robusta là một thành phần thêm vào để giảm chi phí sản xuất trong số các sản phẩm cà phê trộn với thành phần chủ yếu là loại arabica của mình. 
 
Dự trữ cà phê Arabica có chứng chỉ tại sàn đi ngược lại sàn giao dịch New York khi đã tăng 2,850 bao vào thứ 6; đạt 1.407.878 bao. Trong khi đó, số lượng bao cà phê đang chờ lên sàn tăng lên khoảng 380 bao, đạt mức  24.697 bao. 
 
Các thị trường ngành hàng có sự biến động phức tạp  nhưng chủ yếu đang ở thế bất lợi trong hôm thứ 6 vừa qua, với chỉ số hàng hóa vĩ mô tổng thể có diễn biến tiêu cực trong ngày. Các thị trường đường, ca cao, bông, đậu nành và vàng vẫn có xu thế tăng giá, trong khi đó các thị trường dầu, khí tự nhiên, cà phê, đồng, cam, lúa mì, ngô và bạc đều có biến động nhẹ. Chỉ số hàng hóa Reuters Equal Weight Continuous Commodity Index cho 17 thị trường giảm 0,30% xuống mức 409,58 điểm. Đô la Mỹ gần mức ổn định và giao dịch ở mức 1,278 USD đổi 1 Bảng và 1,085 USD đổi 1 Euro, trong khi dầu Biển Bắc đang cho thấy tăng giá sớm và đang bán ở mức 50,30 USD / thùng.
 
Thị trường Luân Đôn bắt đầu ngày thứ 6 với một dự báo giao động biên độ nhỏ, trong khi thị trường New York bắt đầu khá nhẹ nhàng. Tuy nhiên, thị trường New York đã nhanh chóng quay trở lại vùng phục hồi  và lập tức kéo lại hơn một nửa số tổn thất trước đó của thị trường London. Và nối tiếp sự chuyển biến tích cực của Thị trường New York trong phiên giao dịch đầu giờ chiều, Thị trường London cũng có sự thay đổi nhưng khá khiêm tốn. Tuy nhiên, càng về chiều, thị trường New York trượt giá và rơi trở lại vùng suy giảm. Lúc này thị trường Luân Đôn lại một lần nữa giảm sâu hơn và bắt đầu ngăn chặn hoạt động bán tháo đầu cơ và bắt đầu một đợt giảm điểm mạnh mẽ trong ngày. Dù thế nào chăng nữa  thị trường New York đã có một phần hồi phục khiêm tốn khi đóng cửa giao dịch trong ngày.
 
Thị trường London kết thúc ngày  giao dịch với 91,2% số thâm hụt trong ngày còn nguyên vẹn, trong khi thị trường New York kết thúc với mức biên độ nhẹ với 50,1% lượng thâm hụt trong ngày còn nguyên. Sự kết thúc của ngày giao dịch với lượng hàng hóa trao đổi rất lớn đã gây được rất ít lòng tin với các nhà đầu tư và hơn thế nữa góp phần tạo ra một bức tranh tiêu cực cho các biểu đồ, nhưng có thể kỳ vọng rằng một số lượng mua vào đem sẽ làm tăng giá cho phiên giao dịch sớm ngày hôm nay so với mức giá đưa ra vào thứ 6, như sau:  
 
LONDON ROBUSTA US$/MT                          NEW YORK ARABICA USc/Lb. 
 
MAY     1906 – 56                                              MAY   129.50 – 0.35
JUL      1936 – 54                                              JUL    131.90 – 1.00
SEP      1953 – 53                                             SEP    134.25 – 1.00
NOV     1960 – 52                                              DEC   137.85 – 1.00
JAN      1962 – 53                                             MAR   141.30 – 1.00
MAR     1963 – 49                                             MAY   143.50 – 0.95
MAY     1964 – 40                                              JUL    145.55 – 0.95
JUL      1971 – 39                                              SEP    147.55 – 0.90
SEP      1979 – 39                                              DEC   149.90 – 1.00
NOV     1986 – 39                                              MAR   152.15 – 1.05
 
Nguồn scasa.co.za
 
AGROINFO